Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2020

Phân biệt đau đầu do căng thẳng và bệnh lý thần kinh

 Đau đầu là chứng bệnh phổ biến trong xã hội. Theo Hiệp hội đau đầu thế giới, đau đầu được chia thành 13 nhóm khác nhau, tương đương với 13 nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, chung quy lại 2 nguyên nhân điển hình nhất là đau đầu do căng thẳng và đau đầu do bệnh lý thần kinh.

Cách phân biệt đau đầu do căng thẳng và bệnh lý thần kinh

Đau đầu do căng thẳng:

 Nguyên nhân Đau đầu do căng thẳng

Áp lực, stress trong công việc, học tập, mâu thuẫn gia đình. Thường xuyên làm việc trên máy tính hoặc sau khi lái xe trong thời gian dài. Thời gian đau đầu mang tính chu kỳ, chia làm nhiều đợt, thường kéo dài tới 2 tuần trong 1 tháng hoặc 6 tháng trong 1 năm.

Biểu hiện Đau đầu do căng thẳng

Cảm giác căng hoặc siết chặt ở các cơ vùng đầu và cổ. Người bệnh cảm thấy bị nén ép hoặc ê ẩm ở đầu, tăng nhạy cảm đau xung quanh đầu. Đau lan tỏa khắp đầu, nhưng khó chịu nhất ở phần sau đầu và vùng cổ. Không gây ra các triệu chứng như buồn nôn và nôn. Một số ít trường hợp có thể 

gây ra sự nhạy cảm đối với tiếng ồn.

Đặc điểm của đau đầu do căng thẳng là cơn đau tiến triển tăng dần, nhanh và bất ngờ. Tính chất cơn đau ổn định và cường độ không dữ dội.

Đau đầu do căng thẳng gây nhiều khó chịu.

Đau đầu do căng thẳng gây nhiều khó chịu.

Đau đầu do bệnh lý thần kinh: 

Nguyên nhân gây đau đầu 

do quá trình viêm nhiễm, sự xâm lấn của khối u, thiếu máu não. Các quá trình bệnh lý gây xoắn vặn, giãn căng hoặc phù nề quanh các mạch máu. Thời gian: Các cơn đau đến đột ngột, diễn tiến nhanh. Có thể đau suốt ngày hoặc 1 vài giờ.

Đặc điểm: Xảy đến bất ngờ, đau dữ dội, thường kèm theo nhiều dấu hiệu khác như: nôn, ói, tê, liệt... Biểu hiện của chứng đau đầu do bệnh lý thần kinh tùy thuộc nguyên nhân gây đau.

Đau đầu do tăng huyết áp:

 đột ngột, dữ dội, đau khu trú nhiều ở vùng chẩm, trán.

Đau đầu do u não: 

kèm theo buồn nôn, mờ mắt hoặc liệt dây thần kinh sọ não, mắt mờ.

Đau đầu do viêm màng não: 

đau đầu dữ dội, kèm biểu hiện cổ cứng, ói, sợ ánh sáng, sốt cao.

Đau đầu do dị dạng mạch máu não: 

cơn đau âm ỉ, đôi khi đau dữ dội có thể kèm theo liệt run.

Đau đầu do xuất huyết não: 

đột ngột, dồn dập và có thể liệt nửa người, hôn mê nhanh.

Lưu ý khi mắc đau đầu 

Trong cùng một lúc, người bệnh có thể mắc nhiều loại đau đầu khác nhau (như đau đầu do viêm xoang, do tăng huyết áp, do các dây thần kinh ngoại vi...). Cần phải xác định chứng đau đầu nào đang chiếm ưu thế và cần được ưu tiên điều trị trước. Người bệnh nên đi khám đau đầu để xác định nguyên nhân và tìm hướng điều trị phù hợp nhất.

Có thể nói đau đầu do căng thẳng ít nguy hiểm hơn đau đầu do bệnh lý thần kinh, tình trạng sẽ mất sau khi người bệnh ổn định và giải tỏa được tâm lý. Ngược lại, những cơn đau đầu là triệu chứng của các bệnh lý cơ thể khác, có thể là dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm.

Các vùng ảnh hưởng từ đau đầu do tăng huyết áp, stress, đau nửa đầu.

Các vùng ảnh hưởng từ đau đầu do tăng huyết áp, stress, đau nửa đầu.

Người bệnh nên làm gì khi bị đau đầu?

Đau đầu

 là chứng bệnh hay gặp đồng thời cũng dễ bị người bệnh bỏ qua và coi đó là bệnh lặt vặt. Tuy nhiên các chứng đau đầu có các biểu hiện khác nhau và người bệnh cần phân biệt được các dấu hiệu đau do bệnh lý. Khi bị đau đầu mà cơn đau đầu ngày càng dữ dội với mức độ tăng dần thì người bệnh cần cảnh giác và nên nghĩ đến chứng đau đầu đi kèm bệnh lý và nên đi khám bác sĩ ngay, làm các thăm dò chức năng cần thiết để xác định bệnh và có liệu pháp điều trị phù hợp. Để việc điều trị bệnh hiệu quả, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ. Bệnh nhân không tự ý dùng thuốc điều trị đau đầu dạng này, vì với các bệnh lý thần kinh của não bộ, việc dùng thuốc bừa bãi sẽ để lại hậu quả lâu dài, không thể lường hết được. Dùng thuốc bừa bãi khiến bệnh không thuyên giảm mà còn diễn tiến nặng hơn, rất nguy hiểm.

Nếu trong cuộc sống không thể tránh khỏi stress, bạn hãy học cách khắc phục và hóa giải stress tốt hơn. Nên giảm áp lực công việc, tránh những căng thẳng, cố gắng giữ cho mình có một tinh thần lạc quan yêu đời. Chuyên cần tập luyện thể dục thể thao, đi bộ, yoga, dưỡng sinh, khí công... Hãy học cách thư giãn thể dục nhẹ trước khi đi ngủ để có giấc ngủ tốt hơn, cố gắng ngủ đúng giờ, tránh ngủ ngày quá nhiều để có được giấc ngủ ngon và phòng ngừa đau đầu hiệu quả.

Bệnh viêm đại tràng

 Viêm đại tràng 

dễ gây ra hiện tượng viêm loét và rối loạn chức năng của đại tràng. Bệnh kéo dài có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, trong đó có ung thư đại tràng.

Bệnh viêm đại tràng để lâu có nguy hiểm không là điều nhiều người bệnh lo lắng 

Viêm đại tràng kéo dài - ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt và cuộc sống

Người mắc bệnh đại tràng thường cảm thấy mệt mỏi, ăn ngủ kém, chán ăn, đầy bụng, giảm trí nhớ, hay cáu gắt, đi ngoài phân có máu. Nếu bệnh nặng, cơ thể có thể sốt, gầy sút hốc hác, ảnh hưởng đến sinh hoạt và công việc.

Một khi đã mắc bệnh người bệnh phải kiêng khem rất khổ sở, chỉ cần ăn thức ăn không hợp vệ sinh là bệnh tái phát trở lại trầm trọng hơn.

Biểu hiện đầu tiên của bệnh viêm đại tràng thường gặp: 

đau quặn, mót rặn, phân nhầy mũi, đau quặn từng cơn khắp bụng, nhất là dưới rốn. Cơn đau có thể nặng hay nhẹ, thưa hay dày tùy vào mức độ viêm, cơn đau kèm theo cảm giác muốn đi ngoài mà không đi được.

Bệnh viêm đại tràng có thể khởi phát từ một đợt viêm đường tiêu hóa cấp tính nhưng không được phát hiện sớm dẫn đến vết loét thêm nặng hoặc tự điều trị không đúng cách dẫn đến nhờn thuốc, kháng thuốc.

Viêm đại tràng có tỷ lệ mắc cao, dễ dàng tái phát, khó dứt điểm bệnh

Viêm đại tràng là một hội chứng bệnh do nhiều nguyên nhân, bệnh dễ mắc nhưng lại khó chữa. Môi trường ở đại tràng được xem là môi trường bẩn (tạo phân), mạch máu tại chỗ kém nuôi dưỡng, do đó đại tràng có sức đề kháng kém, niêm mạc đường ruột tại đại tràng không có điều kiện tự phục hồi sau khi có “tổn thương” nguyên phát (viêm).

Đây là bệnh nguy hiểm vì khả năng chữa trị dứt điểm rất thấp, rất dễ tái phát và có nguy cơ phát triển thành ung thư đại tràng rất cao (ảnh minh hoạ)

 

Bệnh viêm đại tràng nguy hiểm ở chỗ thường được chẩn đoán muộn, khả năng điều trị dứt điểm thấp, rất dễ tái phát và đặc biệt có nguy cơ phát triển biến chứng rất cao. Theo các nghiên cứu, viêm đại tràng mạn tính làm tăng nguy cơ ung thư đại tràng từ 20-25% và có tới 30% người bị viêm đại tràng kéo mạn tính sẽ có nguy cơ bị ung thư đại tràng.

Viêm đại tràng có nhiều biến chứng rất nguy hiểm

Đối với viêm đại tràng mạn tính lâu năm, trên biểu mô niêm mạc đại tràng xuất hiện những tổn thương sâu và rộng, khó chữa lành nên có nguy cơ biến chứng thành các căn bệnh nguy hiểm như: giãn đại tràng cấp tính (2-6%), thủng đại tràng (2,8%), chảy máu nặng (1-5%) và ung thư đại trực tràng – một trong năm loại ung thư nguy hiểm nhất ở Việt Nam (Theo giáo sư Nguyễn Xuân Huyên – "Bách khoa thư bệnh học" – 2008).

- Gây xuất huyết: Tình trạng này xảy ra khi lớp niêm mạc đại tràng bị viêm nhiễm nghiêm trọng, lớp lông nhung trong đại tràng trở nên trơ trụi sau điều trị bằng kháng sinh hoặc khi người bệnh sử dụng nhiều sản phẩm chứa chất kích thích. Khi tình trạng này trở nên trầm trọng sẽ rất dễ gây ra việc xuất huyết ồ ạt.

- Thủng đại tràng: Biến chứng thủng đại tràng xuất hiện sau khi điều trị bằng kháng sinh, lợi khuẩn trong đường ruột bị tiêu diệt, lớp lông nhung bị trơ trọi làm các vết loét ăn sâu và bào mỏng thành đại tràng. Nếu không được cấp cứu kịp thời, biến chứng này sẽ đe dọa tới tính mạng.

- Giãn đại tràng cấp tính: Khi bị giãn, chức năng tiêu hóa của đại tràng bị suy giảm nghiêm trọng gây ra loét và thủng. Người bệnh viêm đại tràng thường có những biểu hiện đau bụng, dữ dội, chướng bụng, có thể hôn mê và gây tử vong.

Viêm đại tràng có nhiều biến chứng thành các căn bệnh nguy hiểm, nhất là ung thư đại tràng

- Ung thư đại tràng: Có thể nói đây là biến chứng nguy hiểm nhất của viêm đại tràng. Theo thống kê, có tới 20% người bệnh sẽ biến chứng thành ung thư đại tràng. Các chuyên gia cho biết, nguy cơ viêm đại tràng “ung thư hóa” sẽ tích lũy theo thời gian và có thể bắt đầu xuất hiện khi kéo dài từ 7-10 năm. Lúc này niêm mạc đại tràng bị viêm loét kéo dài và tái phát liên tục, các tế bào biểu mô có nguy cơ bị loạn sản và chuyển thành ác tính gây ra ung thư.

Bệnh viêm đại tràng - cần chú ý điều trị sớm và ngừa tái phát!

Để chữa bệnh viêm đại tràng thì người bệnh cần đảm bảo tuân thủ tuyệt đối theo sự chỉ dẫn của bác sĩ điều trị kết hợp với việc thay đổi chế độ ăn uống sinh hoạt phù hợp. Tùy theo việc chẩn đoán bệnh lý đang ở giai đoạn nào? Viêm đại tràng cấp tính hay mạn tính mà từ đó bác sĩ sẽ đưa ra phương pháp điều trị thích hợp.

Những biểu hiện của bệnh động mạch vành

 Những biểu hiện của bệnh động mạch vành

Xơ vữa động mạch

 là bệnh lý của thành động mạch. Mảng xơ vữa xuất hiện ở hệ thống động mạch nào thì sẽ gây ra bệnh lý ở vùng động mạch đó chi phối. Khi mảng xơ vữa được tạo thành ở động mạch vành (động mạch cung cấp máu nuôi dưỡng cơ tim) sẽ gây ra bệnh động mạch vành.

Kích thước của mảng xơ vữa động mạch ở thành động mạch vành (ĐMV) có thể rất nhỏ mà mắt thường không nhìn thấy được, nhưng cũng có thể lớn đến mức làm hẹp tắc cả lòng ĐMV. Khi lòng ĐMV bị mảng xơ vữa gây hẹp đến mức máu không đủ để đáp ứng được nhu cầu nuôi dưỡng cơ tim, gây ra tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ ở vùng cơ tim do nhánh ĐMV đó phụ trách.

Tình trạng hẹp tắc lòng ĐMV có thể diễn tiến trong một thời gian dài, nhưng cũng có thể nhanh chóng trong vài phút, vài giờ. Nếu bệnh diễn tiến từ từ và trong một thời gian dài thì bệnh cảnh đó được gọi là hội chứng vành mạn. Nếu bệnh cảnh đó diễn tiến nhanh chóng, dồn dập thì được gọi là hội chứng vành cấp.

Biểu hiện của  hội chứng vành mạn

Tên gọi hội chứng vành mạn mới được dùng trong năm 2019. Trước đây, hội chứng này còn có các tên gọi khác là bệnh ĐMV mạn, bệnh ĐMV mạn tính - ổn định. Đây chỉ là một hội chứng, chứ chưa phải là một bệnh, vì có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra bệnh cảnh này. Xơ vữa động mạch chỉ là một nguyên nhân thường gặp trong những nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ - mạn tính. Về bản chất bệnh, hội chứng này có thể sẽ thoái lui hoặc có thể diễn tiến thành hội chứng vành cấp, cho nên khái niệm “ổn định” sẽ không còn được dùng nữa.


Những biểu hiện của bệnh động mạch vành
                              Đau thắt ngực xảy ra lúc đang chạy bộ

Sinh lý bệnh của hội chứng vành mạn là về những yếu tố nào có thể gây nên tình trạng thiếu máu cục bộ cho vùng cơ tim.  “Thiếu máu cục bộ” là tình trạng thiếu máu cho một vùng của cơ tim, chứ không phải thiếu máu đi về tim hay thiếu máu cung cấp cho toàn bộ cơ tim. Mỗi nhánh ĐMV phụ trách cung cấp máu, tưới máu cho một vùng cơ tim nhất định. Cho nên, khi hẹp lòng của một nhánh ĐMV thì sẽ không cung cấp máu đủ cho một vùng cơ tim do nhánh ĐMV đó phụ trách.

Như đã nói ở trên, ở hội chứng vành mạn chúng ta có sự hẹp tương đối cố định ở lòng mạch vành của một nhánh ĐMV. Nếu tắc hoàn toàn thì yếu tố chính gây nên tình trạng thiếu máu cục bộ cơ tim là do mất hẳn dòng máu đến tưới cho vùng cơ tim. Nhưng nếu lòng ĐMV chỉ bị hẹp thì hiện tượng thiếu máu cơ tim cục bộ sẽ chỉ xảy ra khi bị mất quân bình của cán cân cung cấp - nhu cầu.

Khi nào thì sẽ có tình trạng mất quân bình cán cân cung cầu nhu cầu oxy cho cơ tim? Mất quân bình của cán cân này xảy ra khi tình trạng cung cấp máu không đủ hoặc khi nhu cầu oxy cơ tim tăng quá mức. Khi tình trạng hẹp lòng ĐMV đến mức mà dòng máu qua chỗ hẹp không thể đảm bảo được nhu cầu cho cơ tim lúc người bệnh nghỉ ngơi (không gắng sức) sẽ làm mất cân bằng cán cân cung – cầu ngay lập tức.

Có 5 yếu tố chính tác động lên tim, làm cho cơ tim phải hoạt động nhiều và làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim. Đó là: huyết áp tâm thu, thể tích của buồng thất trái cuối tâm thu, tần số tim, độ dày của thành tim, và sức co bóp nội tại của cơ tim. Khi chúng ta gắng sức thì huyết áp của chúng ta sẽ tăng lên, tim sẽ đập nhanh hơn (tăng tần số tim), cơ tim sẽ co bóp mạnh mẽ hơn… Vì vậy, khi gắng sức chúng ta sẽ làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim và làm mất căn bằng của cán cân cung – cầu oxy cơ tim trong trường hợp lòng ĐMV hẹp ở mức độ vừa phải.

Như vậy, trong trường hợp hội chứng mạch vành ổn định, mạn tính thì tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ chỉ xảy ra khi cơ tim phải hoạt động nhiều hơn; hay nói cách khác là các biểu hiện của hội chứng sẽ xuất hiện khi người bệnh gắng sức. Tình trạng thiếu máu cơ tim cục bộ có thể gây ra nhiều triệu chứng, thường gặp nhất là triệu chứng đau ngực. Người bệnh có thể bị đau ngực lúc gắng sức về thể lực (hoạt động thể lực mạnh, sau bữa ăn no) hay là gắng sức tâm lý (tức giận, buồn phiền…). Khi tình trạng thiếu máu cơ tim xuất hiện (lúc gắng sức), thì ngoài triệu chứng đau thắt ngực ra còn có thể có các triệu chứng khác như khó thở, hồi hộp, đánh trống ngực, vã mồ hôi …

Đau thắt ngực một cách điển hình trong hội chứng ĐMV mạn.  Đau ngực xảy ra lúc gắng sức; đau ngay sau xương ức; cảm giác đau như bóp nghẹt, như dao đâm; đau lan lên vai trái, hàm trái, cánh tay trái, cẳng tay trái, bàn tay trái. Đau giảm đi khi người bệnh nghỉ tĩnh hoặc khi ngậm dưới lưỡi thuốc Nitroglycerine. Khi có những triệu chứng như nêu trên thì người bệnh cần đến bác sỹ chuyên khoa tim mạch để được chẩn đoán, xác định tình trạng bệnh.

Những biểu hiện của bệnh động mạch vành

Nứt vỡ mảng xơ vữa, tạo huyết khối gây tắc lòng ĐMV

Biểu hiện của hội chứng vành cấp

Để hiểu được những biểu hiện của hội chứng vành cấp, chúng ta cần xem xét về sinh lý bệnh của hội chứng này. Khi một mảng xơ vữa của thành ĐMV bị nứt vỡ hay bị bào mòn đến mức làm lộ các thành phần khác trong mảng xơ vữa sẽ dẫn đến việc hình thành huyết khối ngay tại chỗ nứt vỡ này. Huyết khối lớn lên nhanh chóng và sẽ gây tắc, hẹp nặng nề lòng ĐMV.

Tình trạng tắc hoặc hẹp nặng nề lòng ĐMV khiến cho máu không đến (hoặc đến rất ít) nuôi vùng cơ tim mà nhánh ĐMV này phụ trách, nuôi dưỡng. Do đó, vùng cơ tim này bị thiếu máu nuôi rất trầm trọng. Tình trạng thiếu máu nuôi cơ tim  hiện diện ngay lúc mà cơ tim ở trạng thái không gắng sức, nghĩa là xảy ra thiếu máu cơ tim nặng nề dù người bệnh không ở trong trạng thái gắng sức. Mất cân bằng cán cân cung - cầu oxy cơ tim xảy ra là do giảm cung cấp trầm trọng, dù không có trạng thái tăng nhu cầu oxy cơ tim. Nói cách khác là đau thắt ngực xảy ra lúc nghỉ tĩnh.

Như vậy, biểu hiện của hội chứng vành cấp vẫn là triệu chứng đau ngực, nhưng triệu chứng này có những đặc điểm khác với đau thắt ngực trong hội chứng vành mạn. Đau ngực trong hội chứng vành cấp có những tính chất sau: đau ngực xảy ra lúc nghỉ tĩnh, đau ngực kéo dài trên 15 phút, đau ngực với cường độ dữ dội (làm người bệnh không chịu nổi), đau ngực không giảm đi khi người bệnh ngậm Nitriglycerine dưới lưỡi, đau ngực kèm theo những biểu hiện nặng nề (vã mồ hôi, tụt huyết áp, nhịp tim chậm, ngất, ngừng tim…). Nếu người bệnh đau ngực sau xương ức mà có kèm với một (hay nhiều hơn một) trong những tính chất nêu trên thì phải đến ngay bệnh viện chuyên khoa tim mạch để được chẩn đoán và điều trị sớm nhất.


Mất ngủ - căn bệnh thời hiện đại

 Ngủ là một nhu cầu thiết yếu của cơ thể. Chất lượng giấc ngủ có những ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống. Trong cuộc sống hiện đại, mất ngủ đang trở thành một vấn đề lớn, dễ gặp phải ở nhiều người.

Ngủ là một nhu cầu sống còn đối với cơ thể chúng ta. Thông thường thời gian ngủ chiếm 1/3 thời gian cuộc đời mỗi người. Trong khi ngủ, cơ thể chúng ta được đưa về trạng thái hoạt động ở mức thấp nhất. Cơ thể được duy trì ở mức chuyển hóa cơ bản, tạo điều kiện cho các cơ quan trong cơ thể được nghỉ ngơi và hồi phục sau thời gian dài hoạt động. Khi ngủ, cơ thể tiết ra những hormone quan trọng giúp quá trình chuyển hóa, tích lũy năng lượng cần thiết cho hoạt động trong ngày và quá trình tăng trưởng cơ thể, giúp não bộ sắp xếp lại những thông tin một cách hệ thống, thiết lập và củng cố khả năng ghi nhớ của não bộ.

Khi cuộc sống ngày càng hiện đại, sự thay đổi về môi trường sống như ô nhiễm âm thanh, ánh sáng, nhịp sống, stress, áp lực công việc ngày càng gia tăng là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều sự thay đổi trong vấn đề giấc ngủ. Thống kê sơ bộ cho thấy ở Mỹ  dân số bị rối loạn giấc ngủ (thời gian, chất lượng giấc ngủ không đảm bảo), trong đó mất ngủ chiếm 50% các ca rối loạn giấc ngủ.

Tại các quốc gia phát triển ở Châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, đặc biệt là Nhật Bản, khi áp lực công việc đã là một phần văn hóa thì tình trang mất ngủ, rối loạn giấc ngủ lại càng trầm trọng hơn. Tại nước ta, vấn đề giấc ngủ chỉ mới được quan tâm đúng đắn và có những đơn vị chuyên môn trong giai đoạn gần đây; nên chưa có những thống kê, nghiên cứu với số lượng và thực trạng chính xác. Tuy nhiên, qua quá trình thăm khám đã có nhiều trường hợp mất ngủ mạn tính lâu năm có khi lên đến hàng chục năm chưa hề “chợp mắt” được giây phút nào.

Đánh giá chất lượng giấc ngủ

Chất lượng của một giấc ngủ được đánh giá dựa trên thời gian ngủ (ngủ bao lâu), và chất lượng của các giai đoạn khác nhau trong giấc ngủ.

Thời gian ngủ của mỗi đối tượng, lứa tuổi khác nhau thì có sự khác biệt: Trẻ sơ sinh cần ngủ 16 - 20 tiếng mỗi ngày để phát triển trí não, thể chất; trẻ em dưới 16 tuồi cần ngủ 8 - 10 tiếng mỗi ngày, người trường thành cần ngủ trung bình 8 tiếng trên ngày, người trên 60 tuổi thời gian ngủ có sự  suy giảm còn khoảng 6 tiếng một ngày và thường có chất lượng giấc ngủ không tốt (ngủ không sâu, ngủ lờ mờ, dễ thức giấc…).

Mất ngủ

Ngủ đủ giấc là một điều kiện cần cho một giấc ngủ chất lượng nhưng không phải là điều kiện đủ để đánh giá một giấc ngủ có chất lượng cao. Nếu thời gian ngủ là “lượng” thì một giấc ngủ ngon cần sự đảm bảo về “chất”.

Giấc ngủ thông thường có thể chia đơn giản thành các giai đoạn ngủ nông - ngủ sâu - ngủ mơ; mỗi giai đoạn có những giá trị và lợi ich khác nhau.

Ngủ nông: là giai đoạn bắt đầu đi vào giấc ngủ và ngủ dễ thức giấc

Ngủ sâu: là giai đoạn sau ngủ nông là giai đoạn hồi phục thể chất của cơ thể. Thời gian ngủ sâu của người lớn tuổi rất ít dẫn đến việc sau giấc ngủ không thấy sảng khoải, không có sự khôi phục thể chất, cơ thể mệt mỏi sau giấc ngủ.

Mơ: mơ biến trí nhớ ngắn hạn thành trí nhớ dài hạn, giai đoạn mơ có tác dụng thải độc cho các tế bào thần kinh, hồi phục sức khỏe thần kinh giúp cơ thể minh mẫn sau giấc ngủ. Việc rối loạn thời gian mơ trong cấu trúc giấc ngủ có thể để lại nhiều biến chứng như xẹp đường dẫn khí, giảm tưới máu não gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh, thậm chí có thể gây đột qụy (thường xảy ra trong giai đoạn mơ).

Trong khoa học giấc ngủ, người ta chia giấc ngủ bình thường theo 2 chu kỳ: NREM (Non rapid eye movement: giấc ngủ không chuyển động mắt nhanh) và REM (Rapid eye movement: giấc ngủ chuyển động mắt nhanh). Trong đó, chu kỳ NREM chia thành 4 giai đoạn. Cấu trúc của giấc ngủ có sự thay đổi trong suốt đời người. Ở thời kỳ sơ sinh, giấc ngủ REM hiện diện hơn 50% tổng thời gian ngủ và điện não chuyển trực tiếp từ giai đoạn thức đến giai đoạn REM mà không thông qua những giai đoạn từ 1 đến 4 của giấc ngủ NREM. Trẻ mới sinh ngủ 16 giờ một ngày xen lẫn với những giai đoạn thức ngắn. Đến 4 tháng tuổi giấc ngủ REM còn thấp hơn 40% và đi vào giai đoạn đầu tiên của giấc ngủ NREM. Với người trưởng thành NREM chiếm 75% tổng thời gian giấc ngủ còn lại là giai đoạn REM.

Một giấc ngủ ngon là một giấc ngủ phù hợp về thời gian, đảm bảo về chất lượng của giấc ngủ. Giấc ngủ không đảm bảo gây nhiều ảnh hưởng đến hệ thần kinh, hệ tim mạch, hệ tuần hoàn. Ngủ là giai đoạn nghỉ ngơi của cơ thể, nếu ngủ không đảm bảo sẽ làm mất thời gian nghỉ ngơi của hệ thống cơ quan, làm các hệ thống cơ quan bị suy yếu làm sức khỏe suy yếu; dẫn đến nguy cơ suy giảm tuổi thọ cũng như các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn trong tương lai.

Nguyên nhân rối loạn giấc ngủ

Mất ngủ có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau 

có thể do nguyên phát hay thứ phát, một số nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ thường gặp như:

- Môi trường ngủ không tốt: môi trường ồn ào, nhiều tạp âm, cường độ ánh sáng không phù hợp, không gian, nhiệt độ không phù hợp có thể gây khó ngủ, mất ngủ.

- Sử dụng chất kích thích như trà, cà phê… trước khi ngủ cũng có thể gây rối loạn giấc ngủ.

- Một số trường hợp sử dụng chất kích thích như rượu bia để dễ ngủ cũng là những sai lầm thường gặp; thành phần cồn trong rượu bia có tác dụng an thần, chỉ đưa cơ thể vào trạng thái ngủ nông và hạn chế giấc ngủ sâu làm cản trở quá trình hồi phục của cơ thể, làm cơ thể cảm thấy mệt mỏi, uể oải khi thức giấc. Bia rượu còn khiến bộ máy cơ thể như thận, gan phải hoạt động, cơ thể phải thức giấc giữa đêm để đi tiểu cũng làm gián đoạn giấc ngủ.

- Người cao tuổi hay mất ngủ còn có thể do tình trạng đau mãn tính ở khớp hay cột sống, dị ứng về đêm, khó thở khi ngủ, chứng tê chân và chân không yên khi ngủ; rối loạn nhịp tim dạng ngoại tâm thu, suy tim, trào ngược thực quản, tiểu đêm nhiều lần; bệnh nội tiết như hội chứng cushing, cường tuyến giáp trạng.

- Ngoài ra không thể không kể đến nguy nhân do lo âu, căng thẳng, stress cũng gây nên tình trạng mất ngủ của người cao tuổi.

Khi có dấu hiệu ban đầu của tình trạng rối loạn giấc ngủ hay mất ngủ, người bệnh cần được điều trị sớm để tránh bệnh kéo dài và chuyển đến tình trạng mạn tính (kéo dài trên 3 tháng) gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như những khó khăn trong điều trị.

Trị bệnh mất ngủ từ gốc

Mất ngủ có thể do nhiều nguyên nhân và có ảnh hưởng lớn để sức khỏe người bệnh.

 Tuy nhiên việc điều trị mất ngủ không quá khó khăn và hiệu quả điều trị cũng đạt được nhiều kết quả cao nếu tìm đúng nguyên nhân và được điều trị sớm.

Nếu nguyên nhân mất ngủ do sự lo âu quá mức, trầm cảm, căng thẳng… thì việc giải tỏa tâm lý, giải quyết mối bận tâm, lo lắng giúp người bệnh có được tâm trạng thoải mái, thư thái để dễ dàng đi vào giấc ngủ.

Nếu mất ngủ do ảnh hưởng của môi trường ngủ như thiếu yên tĩnh, ồn ào, cường độ ánh sáng cao, quá lạnh hay quá nóng… thì việc thay đôi môi trường ngủ thoải mái sẽ có hiệu quả.

Nếu mất ngủ là nguyên nhân thứ phát của các bệnh mãn tính như: tim mạch, hô hấp, nội tiết, rối loạn tiền đình, hẹp đốt sống cổ… thì việc ổn định các bệnh lý này vừa giúp bệnh nhân giải tỏa được tâm lý cũng như cải thiện được tình trạng rối loạn giấc ngủ.

Người bệnh cần lưu ý, giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ có sự thay đổi theo thời gian, càng lớn tuổi con người càng ngủ ít và chất lượng giấc ngủ cũng suy giảm theo tuổi tác. Do đó không thể đòi hỏi một giấc ngủ có thời gian và chất lượng như người trưởng thành. Người cao tuổi có thể sử dụng một số loại thảo dược như tim sen, kỷ tử,… cũng như một số loại thực phẩm có tác dụng an thần để giúp cơ thể dễ đi vào giấc ngủ; rèn luyện thói quen vận động nhẹ nhàng như tản bộ sau khi ăn để cơ thể thư thái và dễ ngủ.

Viêm đại tràng co thắt

 Bệnh viêm đại tràng co thắt (hay hội chứng ruột kích thích hoặc bệnh đại tràng cơ năng) khá giống với một số bệnh đường tiêu hóa khác. Bệnh biểu hiện bằng sự rối loạn chức năng đại tràng mà không có tổn thương thực thể ở đại tràng như rối loạn tính chất của phân, tăng co bóp đại tràng,…

Nếu viêm đại tràng là có vết viêm, vết tổn thương trên niêm mạc đại tràng thì đại tràng co thắt là bệnh mà niêm mạc đại tràng hoàn toàn bình thường nhưng rối loạn chức năng tại đại tràng. Do đó phải biết rằng bệnh đại tràng co thắt sẽ không có viêm. Viêm đại tràng co thắt chính là những người bệnh có cả tình trạng viêm đại tràng và đại tràng co thắt.

Thủ phạm gây viêm đại tràng co thắt thường gặp nhất là gì?

Một số yếu tố nguy cơ sau thường xuất hiện và có thể gây tác động đến sự xuất hiện của bệnh:

- Tình trạng tăng mẫn cảm ruột do rối loạn về cảm giác của hệ thống thần kinh giữa ruột và não. Các nghiên cứu chỉ ra, người bị đại tràng co thắt có nhu động ruột bị thay đổi cường độ co bóp. Nhu động ruột làm việc bất thường gây rối loạn tiêu hóa, cường độ co bóp nhanh gây triệu chứng đầy hơi, tiêu chảy, chướng bụng, nhưng nếu co bóp chậm làm chậm quá trình vận chuyển thức ăn. Điều này khiến phân trở nên khô cứng, gây táo bón.

- Bất thường về các thụ thể cảm nhận của đại tràng.

- Các yếu tố khách quan bên ngoài như trạng thái lo lắng, rối loạn cảm xúc, stress trong công việc, người khó khăn khi hòa nhập với cộng đồng,… Stress căng thẳng khiến các tín hiệu giữa não và ruột phối hợp kém, gây những rối loạn của quá trình tiêu hóa. Điều này lí giải tại sao người bệnh đại tiện thất thường, lúc bị tiêu chảy, lúc bị táo bón.

- Chế độ ăn uống không điều độ, nhiều thực phẩm khó tiêu hay nhiều dầu mỡ, thức ăn kém vệ sinh, sử dụng nhiều rượu bia và chất kích thích cũng là những yếu tố nguy cơ xuất hiện bệnh.

- Rối loạn nội tiết tố: Theo thống kê, phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi so với đàn ông, nguyên nhân chủ yếu do thay đổi nội tiết tố trong chu kỳ kinh nguyệt, thời kỳ mang thai hay tiền mãn kinh.

Bệnh đại tràng co thắt 

thường ít ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh nhưng vì do yếu tố tâm lý khi người bệnh lo lắng dẫn đến rối loạn nặng nề về chức năng của đại tràng. Bệnh gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cuộc sống. Quản lý và điều trị tốt bệnh đại tràng co thắt giúp người bệnh cải thiện hiệu quả chất lượng cuộc sống.

Triệu chứng bệnh viêm đại tràng co thắt thường gặp nhất là gì?

Bệnh thường gặp ở người trẻ tuổi, với ba triệu chứng chính thường gặp là đau bụng, táo bón và tiêu phân lỏng có thể phối hợp hoặc đơn độc xen kẽ nhau. Bạn có thể đang gặp phải bệnh lý viêm đại tràng co thắt khi có các biểu hiện:

- Thường chỉ đi ngoài nhiều là 2 lần vào buổi sáng. Thường đi ngoài 1 lần vào buổi sáng, ăn sáng xong có thể đi ngoài thêm 1 lần nữa, nhưng ăn sáng đồ nước đi ngoài nhiều hơn ăn sáng đồ khô. Có thể đi ngoài 3-4 lần vào buổi sáng, nhiều khi có buồn đi nhưng không đi được hoặc đi được ít một, đi ngoài cảm giác không hết phân.

- Đau bụng có thể có hoặc không. Nếu có đau nhiều khi bất thường, lúc thế này lúc thế kia...

- Ăn uống các chất kích thích hay đi ngoài.. Một số người ăn rau có tính nhuận tràng như rau sống, rau cải, rau muống và rau ngót dễ bị đi ngoài phân sống, ra rau. Đôi khi vừa ăn xong 5-10p đã thấy bị buồn đi.

- Khoảng 70% người bệnh có triệu chứng lúc lo lắng, căng thẳng, suy nghĩ nhiều hay tối có mất ngủ triệu chứng có nặng hơn. Đôi khi làm việc quên đi thì thấy không sao, nhưng ngồi nghỉ ngơi ngủ lại thấy có triệu chứng.

- Đi ngoài không có máu.

- Tỷ lệ nữ giới mắc bệnh gấp 2 lần nam giới, triệu chứng có thể nặng lên xung quanh chu kỳ kinh nguyệt.

- Triệu chứng bất thường, có thể chịu sự ảnh hưởng của thay đổi thời tiết

Giải pháp điều trị bệnh viêm đại tràng co thắt

Để kiểm soát triệu chứng, điều trị bệnh, nếu nhẹ thì người bệnh cần loại bỏ nguy cơ như: giảm căng thẳng, ăn uống hợp lí, sinh hoạt lành mạnh, giảm căng thẳng, stress.

Điều trị lao phổi - Cần đúng và kịp thời

 Bệnh lao

 là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 trong các bệnh nhiễm trùng với khoảng 10 triệu bệnh nhân lao mới và gần 1,5 triệu người tử vong do lao trên toàn cầu.

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ước tính trong năm 2018, nước ta có 174.000 người mắc lao mới, số người chết do lao khoảng 11.000 người và có thêm 2.000 người chết vì lao/HIV. Dù đã chích vắc-xin phòng ngừa ngay từ khi mới ra đời nhưng một số người vẫn có thể bị mắc bệnh. Lao phổi hoàn toàn có thể chữa khỏi nhưng tâm lý chủ quan và việc điều trị không đúng sẽ khiến bệnh trở nặng, khó điều trị hơn gây hậu quả nặng nề lên hai lá phổi. Về mặt xã hội, chẩn đoán và chữa trị bệnh lao sớm sẽ giảm bớt được sự lây lan bệnh trong cộng đồng.

Bệnh lao thường có các triệu chứng như:

Ho kéo dài, thường chỉ ho khúc khắc dai dẳng chứ hiếm khi ho dữ dội.

Khạc đờm đục, có khi trong đờm có lẫn ít máu.

Ho ra máu: ho khạc toàn máu đỏ tươi, số lượng có thể ít khoảng chừng một vài muỗng hoặc nhiều (ước lượng cỡ chén hoặc tô…)

Cảm giác khó thở, tức ngực, nặng ngực.

Đôi khi triệu chứng của bệnh lao rất mơ hồ, khó nhận biết như:

Cảm giác mỏi mệt toàn thân kéo dài

Ăn không ngon miệng

Sụt cân không có nguyên do

Sốt nhẹ dai dẳng, thường về buổi chiều hoặc không sốt mà chỉ có cảm giác gây gấy ớn lạnh.

Một số người bị bệnh lao mà không có triệu chứng gì cả. Họ thường được phát hiện bệnh một cách tình cờ khi chụp X-quang phổi qua  khám sức khỏe tổng quát định kỳ.

Chẩn đoán đúng - Điều trị sớm - Tránh biến chứng nguy hiểm từ bệnh lao

Nếu không được điều trị kịp thời người bệnh lao phổi có thể gặp một số biến chứng sau: Tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi, ho ra máu. Sau khi chữa khỏi lao phổi vẫn có thể để lại một số di chứng như: suy hô hấp mãn, giãn phế quản, u nấm phổi, tràn khí màng phổi...

Để chẩn đoán bệnh lao, ngoài các triệu chứng nêu trên thì người bệnh cần làm một số xét nghiệm sau để có kết luận chính xác:

Chụp X-quang phổi

Tìm vi khuẩn lao trong đàm (đờm) bằng phương pháp nhuộm soi đàm trực tiếp hoặc kỹ thuật sinh học phân tử

Điều trị Lao phổi theo hướng cá thể hóa giúp nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân

Phương pháp điều trị bệnh lao phổi phổ biến hiện nay là dùng thuốc.

 Hầu hết các trường hợp lao phổi đều có thể chữa khỏi được khi tiến hành đúng phương pháp và đúng thuốc. Các phác đồ điều trị lao được phân ra tùy theo từng trường hợp cụ thể.