Lao phổi
Biến chứng nguy hiểm của lao phổi
Lao phổi gây Tràn dịch tràn khí màng phổi:
Tràn dịch màng phổi là hiện tượng màng phổi bị ứ dịch đầy trong khoang màng phổi. Còn tràn khí là hiện tượng khí xâm nhập đầy trong khoang màng phổi. Khí và dịch là từ phổi đi ra, vào trong khoang này.
Khi bị lao phổi, vi khuẩn lao làm thông thương giữa phổi và khoang này làm dịch và khí tràn ra một cách ồ ạt. Sự nguy hiểm ở đây là khí và dịch tràn ra nhiều quá sẽ ép phổi lại còn một thể tích rất nhỏ. Thể tích này không thể cung cấp đủ khí. Người bệnh sẽ bị ngạt thở và tử vong. Do vậy, cần xử lý ngay tình trạng dịch và khí để khai thông sự dễ thở cho nạn nhân.
Lao phổi gây Xơ phổi
Biến chứng đáng ngại nhất của lao phổi là tình trạng xơ hoá phổi. Vi khuẩn lao phá huỷ phổi không ngừng. Chúng có thể làm hỏng một thuỳ nhỏ của phổi nhưng cũng có khi làm hỏng toàn bộ một bên phổi. Các vết phá huỷ này có đặc điểm là lan tràn và mang tính mãi mãi. Khi đã bị phá huỷ tan tác, phổi chỉ còn lại một lá xơ. Lá xơ này thủng lỗ chỗ và không hề có chức năng trao đổi khí. Người bệnh sẽ bị suy hô hấp dần dẫn đến tử vong.
Lao phổi gây Ho nhiều ra máu
Ho ra máu là một dấu hiệu vi khuẩn lao đã thâm nhiễm phổi và bắt đầu phá huỷ phổi. Sự phá huỷ này theo chiều hướng phá tan cấu trúc và làm thủng mạch máu. Ban đầu chỉ là các mạch máu nhỏ ở phế nang. Sau rồi đến các mạch máu lớn.
Không có một ho ra máu nào là nhẹ cả, cho dù đó chỉ là dạng vết máu. Đó là vì máu luôn chảy ra rỉ rả ở trong phổi, tại vị trí vi khuẩn lao phá huỷ. Đặc điểm của ho ra máu do lao là không tự cầm và chảy máu diện rộng. Vì vậy, người bệnh sẽ bị chảy máu rất nhiều và chỉ khi đến một mức độ nào đó mới khạc ra được.
Trong bất kỳ trường hợp nào bị ho ra máu cũng không được chủ quan vì đây là một cấp cứu nội khoa. Nếu không cứu chữa kịp thời thì nạn nhân có thể tử vong nhanh, không kịp trở tay. Đó là khi vi khuẩn lao phá huỷ một mạch máu lớn thì lượng máu sẽ ồ ạt chảy ra. Hoặc khi lượng máu quá nhiều, người bệnh ộc ra. Toàn bộ lượng máu này sẽ làm bít tắc đường phế quản trên diện rộng và người bệnh tắc thở, suy tuần hoàn và tử vong.
Hướng dẫn bệnh nhân lao uống thuốc đều đặn hằng ngày, không tự ngưng hay bỏ thuốc để phòng lao kháng thuốc. Ảnh: TM
Người bệnh lao nên điều trị ở đâu?
Ngay khi phát hiện ra mình có dấu hiệu nhiễm lao, người bệnh cần đến cơ sở y tế gần nhất để được khám xét cẩn thận và được chẩn đoán chính xác.
Việc điều trị lao phải được tiến hành ngay, càng sớm càng tốt. Điều trị lao được thực hiện ở tất cả các bệnh viện đa khoa, bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện khu vực và bệnh viện tuyến trung ương. Thuốc điều trị lao hoàn toàn được Nhà nước cấp miễn phí. Vì vậy, người bệnh lao đừng ngần ngại mà phải đi khám và điều trị ngay tức khắc. Thuốc điều trị lao, phác đồ điều trị là chung trên toàn quốc. Vì vậy, người bệnh không nên quan niệm cứ phải tuyến trung ương điều trị thì mới khỏi bệnh lao. Quan trọng hơn cả chính là ở việc điều trị có tuân thủ nguyên tắc điều trị hay không.
Tuân thủ điều trị lao phổi để khỏi bệnh
Trong điều trị lao, bệnh nhân lao tuyệt đối không được bỏ thuốc ngắt quãng dù chỉ 1 ngày vì đó là khoảng thời gian mà vi khuẩn lao hồi phục và tấn công trở lại. Thường điều trị chia làm 2 đợt: đợt tấn công thường gồm 4 thuốc và đợt duy trì thường gồm 2 thuốc. Bệnh nhân lao phải tuân thủ theo nguyên tắc điều trị lao dưới sự giám sát của nhân viên y tế. Điều trị lao đạt hiệu quả đòi hỏi bệnh nhân phải tuân thủ 3 chữ “Đ” có nghĩa: Đúng, Đủ, Đều.
Đúng: Đúng phác đồ, đúng liều lượng, đúng thuốc.
Đủ: Đủ thời gian (6 hoặc 8 tháng). Tùy theo loại bệnh lao được bác sĩ chỉ định, loại bệnh mới hay tái trị mà áp dụng phác đồ và thời gian điều trị cho từng loại bệnh đó.
Đều: Bệnh nhân phải uống thuốc thật đều đặn hàng ngày, thông thường uống vào buổi sáng lúc bụng đói. Tuy nhiên, cũng tùy vào cơ địa và tùy vào sự dung nạp thuốc của từng bệnh nhân, lúc đó bác sĩ có thể chỉ định cho uống sau ăn hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Trong suốt thời gian điều trị, bệnh nhân không tự ngưng thuốc hoặc bỏ thuốc vì uống thuốc không đều đặn, lúc uống sáng, lúc tối, nhớ lúc nào uống lúc nấy... sẽ giảm hiệu quả điều trị. Vi khuẩn lao rất dễ kháng thuốc lao. Nồng độ thuốc diệt vi khuẩn lao không đủ hiệu lực sẽ tạo cho vi khuẩn lao kháng thuốc, gây khó khăn cho công tác điều trị về sau, ngoài ra còn tạo nguồn vi khuẩn lao kháng thuốc lây lan cho người thân và cho cộng đồng. Trong quá trình điều trị có thể có tác dụng phụ của thuốc lao xảy ra. Nhẹ: nổi mề đay, ngứa, mệt mỏi đau nhức các khớp lớn (hội chứng giả gút). Nặng: Sốc phản vệ, viêm gan, vàng da, đau bụng nôn ói, viêm trợt da. Nếu có những dấu hiện trên, người bệnh nên báo ngay cho bác sĩ điều trị biết để có hướng xử trí.
Sau khi uống thuốc lao, tiểu nước tiểu có màu đỏ và thậm chí đổ mồ hôi hoặc nước mắt có màu đỏ là bình thường vì đây là màu của thuốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét